LÊ NGỌC XÍCH (1568- 1640) Lê Ngọc Xích[1] sinh ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thìn, niên hiệu Chính Trị thứ 11 (1568) đời vua Lê Anh Tông (Lê Duy
LÊ VĂN TIẾN (1821 – 1876) Quê làng Quỳ Chử, sinh ngày 22 tháng 3 năm Tân Tỵ (1821) trong một gia đình đã nhiều đời giữ nếp sống nhân
Lê Tuấn Kiệt (thế kỉ 16)[1] Lê Tuấn Kiệt người xã Từ Minh, huyện Hoằng Hoá, nay là làng Từ Minh, xã Hoằng Long, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
LÊ TRUNG GIANG (đầu thế kỉ XVI) Gần 500 năm về trước, mảnh đất ven biển Hoằng Hoá đã sinh ra một vị tướng, một người con nhân hậu, giàu
LÊ TRẦN GIÁM (1725-1804) Quê làng Phú Khê (tục gọi là Kẻ Đừng), xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Theo gia phả, ông sinh năm 1725, trong
Lê Thị Nhu (1848 – 1917) Trong phong trào Cần vương của nhân dân Hoằng Hoá, bên cạnh những văn thân, sĩ phu yêu nước khởi xướng và lãnh đạo
LÊ THỊ NGỌC NGỖI (1606 – ?) Sinh năm Bính Ngọ (1606), quê làng Trung Hy xã Phú Vinh, nay thuộc xã Hoằng Vinh, phụ thân không rõ tên huý,
Lê Thận Ngôn (1834 – 1869) Ông tên tự là Cổ Đam, tên huý là Thận Ngôn, người làng Thọ Vực, xã Bút Sơn, sau di cư đến làng Cát
LÊ QUANG GIÁP (1584 – 1669) Ông thuộc dòng dõi các vua Lê. Tổ bốn đời là Hoàng thái tử Kinh Vương Kiện con trai thứ 14 của vua Lê
LÊ NHỮ BẬT (1527-1599) Lê Nhữ Bật tự là Trung Trực, thụy là Minh Đạt Người làng Vĩnh Trị, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Về năm
LÊ HUY TIÊU (1765-1831) Lê Huy Tiêu người xã Bột Thượng (nay thuộc xã Hoằng Lộc), sinh năm Ất Dậu (1765), thân phụ đỗ Hương cống dưới triều Lê trung
LÊ HUY PHAN (1838 – 1896)[1] Ông có tên huý là Phan, tự là Lỗ Bão, hiệu là Tĩnh Trai, vốn quê gốc làng Thọ Vực xã Bút Sơn. Ông