Sự nghiệp vẻ vang
Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (tức ngày 10 tháng 9 năm 1385) tại quê mẹ ở làng Chủ Sơn huyện Lôi Dương (sau là Thủy Chú) nay là xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Vua thiên tú cao sảng, khác thường, thần thái đầy vẽ anh hoa, hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, trán cao, vai có nốt ruồi, tiếng như chuông lớn. Lê Lợi được hạng thức giã cho là người phi thường (Toàn thư quyển 10). Ông mất ngày 22 tháng 8 nhuận năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), hưởng thọ 49 tuổi.
Tổ 3 đời của Lê Lợi, theo Lam Sơn thực lục và Hoàng Lê ngọc phả tên là Hối và làm nghề dạy học. Sau rời nhà đến ở đất Lam Sơn (xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân) và tổ chức khai hoang “Ba năm thành sản nghiệp, con cháu ngày một đông, tôi tớ ngày một nhiều” (Bia Vĩnh Lăng).
Lê Lợi được thừa nghiệp của ông cha và trở thành một hào trưởng lớn ở vùng Lam Sơn, dân quanh vùng thường gọi là Đạo Cham.
Năm 1407, giặc Minh đặt ách đô hộ trên đất nước ta, Lê Lợi phải chứng kiến tội ác tày trời của giặc gây ra cho dân ta. Lê Lợi đó nhiều năm “chuyên tâm đọc sách thao lược” : “ẩn náu vào núi rừng… đón mời những người mưu trí, chiêu tập những kẻ trốn tránh để dấy quân nghĩa, muốn trừ loạn lớn” (Toàn thư). Lê Lợi đó dốc hết tâm huyết và tài sản của mình để chuận bị cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của cha ông, uy tín và ảnh hưởng của ông nhanh chóng lan tỏa khắp mọi miền đất nước, trở thành một động lực có sức hút quy tụ xung quanh mình những người cùng chí hướng. Tin Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa truyền đi khắp nơi trong cả nước, nhiều anh hùng hào kiệt từ bốn phương đó bất chấp mọi khó khăn gian khổ tìm đến, đem hết tài năng và sức lực góp sức cùng Lê Lợi đánh đuổi giặc thù. Cùng với việc tập hợp lực lượng, Lê Lợi tổ chức một đạo quân phụ tử tiến hành luyện tập nghĩa quân phát triển và mở rộng trang trại chuẩn bị lực lượng. Lam Sơn, quê hương của Lê Lợi, nhanh chóng trở thành một trung tâm căn cứ, nơi quy tụ tất cả những lực lượng yêu nước sẵn sàng hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Địa thế vùng Lam Sơn có nhiều thuận lợi cho Lê Lợi và nghĩa quân tiến hành tiến công hoặc phòng thủ, là nơi cung cấp lương thảo, khí giới, nghĩa binh để tiến hành khởi nghĩa.
Ngoài căn cứ Lam Sơn, Lê Lợi còn khảo sát và xây dựng một căn cứ thứ hai dùng làm nơi ẩn náu, căn cứ Chí Linh (thuộc xã Trí Nang, huyện Lang Chánh ngày nay).
Một ngày đầu tháng 2 năm Bính Thân (1416), Lê Lợi cùng 18 người bạn thân tín nhất bí mật mở hội thề Lũng Nhai, làm lễ tế cáo trời đất kết nghĩa anh em, thề: “19 người chung sức đồng lòng gìn giữ đất nước, làm cho xóm làng được ăn ở yên lành. Thề sống chết cùng nhau không dám quên lời thề son sắc”, nguyện quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm cứu đất nước ra khỏi cảnh lầm than.
Sau 10 năm chuẩn bị, ngày 7 tháng 2 năm 1418 (tức mùng 2 tết năm Mậu Tuất), Lê Lợi cùng toàn thể nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương và truyền hịch đi khắp nơi kêu gọi nhân dân vùng lên đuổi giặc cứu nước.
Năm 1418, khởi nghĩa bùng nổ tại Mường Tẩm (nay là huyện lị Lang Chánh), lực lượng ban đầu rất nhỏ bé nhưng phải đối đầu với đội quân đông đảo, đầy đủ khí giới của giặc, trong trận này để bảo toàn đầu não của cuộc khởi nghĩa, chủ tướng Lê Lai đó anh dũng hi sinh.
Mùa thu năm Giáp Dần (1424) Lê Lợi tiến quân vào Nghệ An.
Năm 1425, Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân tiến vào giải phóng Nghệ Tĩnh, Tân Bình và Thuận Hóa (tức Bình Trị Thiên ngày nay).
Năm 1426, Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân giải phóng Thanh Hóa.
Đầu năm 1427, Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân tiến ra giải phóng đồng bằng sông Hồng, bao vay thành Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay). Cuối năm 1427, nghĩa quân tiêu diệt 15 vạn quân cứu viện của nhà Minh điều sang cửa ải Chi Lăng (Lạng Sơn) và cửa ải Lê Hoa (Hà Giang hiện nay) khiến quân Minh ở Đông Quan và các trấn thành khác bị bao vây phải đầu hàng, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kết thúc thắng lợi đất nước hoàn toàn giải phóng.
Ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng Đế tại điện Kính Thiên, thành Đông Kinh (tức Hà Nội ngày nay) lấy niên hiệu là Thuận Thiên, Quốc hiệu là Đại Việt
Suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, Lê Lợi đã tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đi tới toàn thắng, quét sạch quân xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập chủ quyền của dân tộc và Quốc gia Đại Việt. Triều đại Hậu Lê lãnh đạo đất nước kéo dài gần 360 năm (từ năm 1428 đến năm 1788). Ông được xem là người trung hưng đất nước lần thứ hai (vì trước đó nhà Minh đã xóa bỏ hoàn toàn nước ta, biến nước ta thành một vùng nhỏ của nhà Minh).
Sau khi lên ngôi, Vua đó ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học, có thể gọi là có mưu kế xa rộng mở mang cơ nghiệp. Song đa nghi, hiếu sát, đó là chỗ kém.
Ngày 12 tháng 5 năm 1428 vua và các đại thần cùng nghị bàn việc nước, quyết định các quan viên, các quan trấn thủ tại các lộ, trấn và nơi xung yếu, định luật lệnh kiện tụng, quy chế về chức tước.
Tháng 8 năm 1428, lấy ngày sinh làm Vạn Thọ thánh tiết (tức ngày mùng 6).
Ngày mùng 10, quy định cờ xí, nghi trượng, chiến khí, thuyền bè của các quân: trung đội cờ vàng, thượng đội cờ đỏ, hạ đội cờ trắng.
Ngày 27 tháng 11 năm 1428, Vua ra lệnh chỉ đặt xã quan. Xã lớn từ 100 người trở lên thì đặt 3 viên, xã vừa từ 50 người trở lên đặt 2 viên, xã nhỏ 10 người trở lên đặt 1 viên.
Ngày 5 tháng 3 năm 1429, Vua ban biển ngạch công thần cho 93 viên: Á hầu 26 người là bọn Lê Lạn, Lê Trãi. Quan nội hầu 12 người là bọn Lê Thiệt, Lê Chương. Quan phục hầu 12 người là bon Lê Cuống, Lê Dao. Thượng trí tự Trước phục hầu 4 người là bọn Lê Khắc Phục, Lê Hài. Huyện Thượng hầu 3 người là Lê Vấn, Lê Sát, Lê văn Xảo; Thượng hầu 1 người là Lê Ngân; Hương Thượng hầu 3 người là Lê Lý, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng; Đình Thượng hầu 14 người là Lê Chích, Lê Văn An, Lê Liệt, Lê Miễn, Lê Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Lê Lỗi, Lê Nhữ Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Lật; Huyện Hầu 14 người là Lê Bị, Lê Bì, Lê Bĩ, Lê Náo, Lê Thụ, Lê Lôi, Lê Khả, Lê Bôi, Lê Khả Lang, Lê Xí, Lê Khuyển, Lê Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật.
Tháng 11 năm 1429 Vua ngự về Tây Đô bái yết sơn lăng, thưởng cho các tướng hiệu và quân nhân theo hầu, mỗi người được thăng tước một bậc.
Ngày 10 tháng 6 năm 1430, Vua ra quy định các ngạch thuế. Lại ban luật lệ. Đổi Đông Đô thành Đông Kinh, Tây Đô thành Tây Kinh. Đổi quê hương Lam Sơn thành Tây Kinh – kinh đô thứ hai cua nước Đại Việt
Tháng 11 năm 1430 Vua đem quân đi đánh bọn nghịch tặc ở châu Thạch Lâm, trấn Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái. Đến tháng 2 năm 1431 thì dẹp xong.
Ngày 5 tháng 11 năm 1431, sứ Minh là Chương Xưởng và Từ Kỳ tới kinh, mang ấn phong vua làm Quyền thự An Nam Quốc Sự.
Ngày 6 tháng 12 vua sai làm sách Lam Sơn thực lục, vua tự làm bài tựa, ký là Lam Sơn động chủ
Tháng giêng năm 1432, sai thân vương Tư Tề đem quân đi đánh châu Mường Lễ. Tù trưởng châu là Đèo Cát Hãn và con trai ra hàng.
Tháng 11 năm 1432, Vua thân đi đánh châu Phục Lễ. Sau đó vua lại đi đánh Ai Lao.
Tháng 8 năm 1433 giáng con trưởng Tư Tề làm Quận vương, lấy con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống.
Vua về Lam Kinh
Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ qua đời thọ 49 tuổi. Ngày 23 tháng 10 cùng năm đưa thi hài vua về táng tại Vĩnh Lăng miếu hiệu Lê Thái Tổ.
Công lao xây dựng đất nước to lớn
Ngày 03 tháng giêng 1428, những đội bộ binh cuối cùng của nhà Minh bị quýet sạch khỏi bờ cõi nước ta. Sự nghiệp Bình Ngô toàn thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ của nghĩa quan Lam Sơn dưới sự lãnh đạo tài năng của người anh hùng giải phóng dân tộc Lê Lợi.
Sự nghiệp Bình Ngô hoàn thành, Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân cả nước khắc phục những hậu quả nặng nề do 20 năm đô hộ của giặc Minh để lại, xây dựng đất nước đưa lịch sử Việt Nam sang trang sử mới.
Tháng 04 năm 1428 Bình định vương Lê Lợi lên ngôi vua lập ra triều đại Hậu Lê, một triều đại kéo dài nhất trong lịch sử phong kiến nước ta, lấy niên hiệu là Thuận Thiên đặt tên nước ta là Đại Việt
Nhà nước Đại Việt đầu tiên Lê Lợi chia làm 5 đạo, mỗi đạo đặt một vệ, mỗi vệ quân có 1 viên tổng quản và đặt chức hành khiển các đạo để coi việc sổ sách quân và dân, Ông tiến hành việc bổ nhiệm các quan ở các lộ ở các huyện, các quan trấn thủ ở các cửa biển trọng yếu.
Về quân đội: Lê Lợi định sổ ngạch cho từng đạo quân và lệnh cho các tướng hiệu, quân sĩ các vệ 5 đạo hội quân tập trận, vào ngày 27 tháng 02 năm 1428 ông chia số quân sĩ thành 5 phiêu; một phiêu ở lại còn 4 phiêu về nhà làm ruộng theo chính sách ” Ngụ binh ư nông”. Đồng thời Lê Lợi đặt chế độ tuyển binh, cứ 3 suất đinh thì 1 suất phải đi lính.
Về Kinh tế: Lê Lợi cho ban hành hàng loạt các chính sách về nông nghiệp và thương nghiệp. Ông cho thi hành chế độ ” quân điền” tịch thu ruộng đất của giặc Minh và bọn nguỵ quan chia cho nhân dân theo phẩm tước và tuổi tác. Ông đã đề ra một số biện pháp kiên quyết để khai khẩn đất hoang mở rộng sản xuất.
Tháng 04 năm 1427 Lê Lợi cho phép những ai không có ruộng đất đều được đi buôn bán, không được bỏ nghề.
Tháng 12 năm 1428 Lê Lợi cho đúc tiền ” Thuận Thiên thông bảo”, bãi bỏ việc tiêu tiền giấy và qui định rõ đơn vị tiền tệ: cứ 50 đồng là 1 tiền.
Về mặt Ngoại giao: Lê Lợi buộc nhà Minh phải thừa nhận nhà nước Đại Việt phong cho ông chức ” Quyền thư An Nam quốc sự, lập bang giao với nhà Lê.
Về An ninh: Lê Lợi rất chú trọng đến việc thiết lập pháp và có chủ trương phòng thủ quốc gia một cách tích cực. Ông thân chinh đưa quân đi dẹp các điểm nổi dậy cát cứ như: đánh Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ Lai Châu, dẹp Bế Khắc Thiệu, dành lại Châu Thạch Lâm ở Thái Nguyên ….
Về Văn hoá giáo dục: Lê Lợi rất chú ý đến việc tuyển dụng nhân tài, trong lúc chiến sự đang còn tiếp diễn, năm 1427 Lê Lợi cho mở kỳ thi đầu tiên ở ngay Đại Bản dinh Bồ Đề ( Gia Lâm – Ngoại thành Hà Nội), tiếp theo các khoa thi ” Minh Kinh” ( 1429) Hoành Từ( 1431), Thi Văn Sách( 1433)…
Ngoài ra Lê Lợi còn chú trọng đến việc khôi phục các giá trị tinh thần của dân tộc. Năm Thuận Thiên thứ 3( 1430) Lê Lợi đã đổi Đông Đô thành Đông Kinh và cho xây cất điện Vạn Thọ, điện Kính Thiên và điện Cần Chánh. Đối với Lam Sơn quê hương, ông đặt thành Tây Kinh ( hay Lam Kinh), xây cung điện, điện miếu thờ cúng tôn vinh tổ tiên làm nơi hành lễ mỗi khi vua về bái yết Sơn Lăng.
Với 6 năm ở ngôi vua, Lê Lợi đã có những đóng góp xuất sắc, đưa đất nước Đại Việt tiến lên, đặt cơ sở vững chắc cho nền độc lập lâu dài của dân tộc.